PNH


Vãn giác văn chương chân tiểu kỹ... Tô Đông Pha.




Một góc nhìn...


Photobucket
Photobucket

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Sách giáo dục?


                                            

“Hiện đại hóa” truyện cổ tích ?

Hình ảnh vợ Mai An Tiêm dùng sắc đẹp của mình để dẫn dụ đàn cá trong truyện tranh Quả dưa hấu - Ảnh: N.V.T 

Hai bộ truyện tranh cổ tích của Công ty truyện tranh Art Sign kết hợp với NXB Giáo dục cùng Công ty CP đầu tư và phát triển giáo dục Phương Nam xuất bản có nhiều “hạt sạn” về ngôn ngữ, cốt truyện.

Sẽ không có chê trách nào nếu hai bộ truyện tranh này không có một loạt câu chữ ngớ ngẩn thuộc hàng “quái dị” và những tình tiết thêm thắt ngoài “phạm vi tưởng tượng” khiến các độc giả khó tính (trước hết là các bậc phụ huynh, những nhà giáo dục) đều lắc đầu.

Chẳng hạn, trong truyện tranh Tấm Cám, bà dì ghẻ đã chửi bới Tấm bằng một thứ ngôn ngữ rất teen như: “Tấm! Tao cấm mày xào nấm với dấm rồi cơ mà. Đầu mày có bị ấm không? Cẩn thận tao cho vài đấm” hay “Tấm! Mày hâm à, mày câm à, sao mày đâm thủng cái mâm”. Ở một số truyện khác là những từ ngữ tiếng Anh như “OK”, “bái bai”... Tất nhiên, các từ ngữ này hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ của người Việt thời xưa dùng để sản sinh ra những câu chuyện cổ tích.

Ngôn ngữ phá cách đã loạn xà ngầu, các câu chuyện cổ tích còn bị bóp méo tình tiết đến mức khó đỡ. Chẳng hạn, hoàng tử Lang Liêu trong Bánh chưng bánh dày được tác giả sửa lại cốt truyện, cho nằm mơ lạc vào cuộc thi “Vào bếp với người nổi tiếng” hay vợ An Tiêm dùng sắc đẹp của mình để dẫn dụ đàn cá về (Quả dưa hấu). Một số hình ảnh gây “choáng” lẫn “sốc” nữa là bà dì ghẻ của Tấm gọi hai con về bằng cách nói qua... micro, Hùng Vương đeo kiếng mát và nhiều loại vũ khí xuất hiện trong truyện tranh mang hơi hướm bạo lực rất hiện đại.

Những “sáng tạo” nói trên, như lời nói đầu của hai bộ truyện tranh, được biện minh là để làm “hiện đại hóa” truyện cổ tích nhằm giúp độc giả có lối cảm thụ mới. Tuy nhiên, việc “chế biến”, “xào nấu” những câu chuyện cổ tích thành những câu chuyện “phiếm” là một điều khó có thể chấp nhận được.

Nguyễn Văn Toàn



Đọc được trên báo Thanh Niên ngày hôm nay (30/10/2012), về tình trạng xuất bản sách ở Việt Nam, đây là loại sách dành cho thiếu nhi, có tính cách giáo dục, với sự hợp tác của nhiều nhà xuất bản lớn, trong đó có nhà xuất bản Giáo dục. Cốt truyện lấy từ cổ tích Việt Nam, theo bài báo người ta đã "hiện đại hóa" truyện cổ tích bằng những ngôn ngữ và những hình ảnh quái dị. Thử tưởng tượng nếu những câu chuyện cổ tích của nhà văn Đan Mạch Hans Chrisian Andersen, như Nàng tiên cá, Cô bé bán diêm, hay Chú lính chì... cũng được người Đan Mạch "biên tập" lại theo những ngôn ngữ "hiện đại" như thế này, thì những câu chuyện cổ tích ấy sẽ ra sao?

Hôm qua cũng trên báo Thanh Niên có bài "Thực hư xẩm tàu điện", để nói "Không có cái gọi là xẩm tàu điện" ở Hà Nội, như là một "dòng xẩm đặc trưng Hà Nội" như đã được giới thiệu. Tôi thgiở lại những trang sách cũ viết về Hà Nội, chẳng hạn quyển Phong tục Việt Nam của Phan Kế Bính, Nghệ thuật cầm ca Việt Nam của Toan Ánh, có nói về hát xẩm ở Hà Nội năm xưa, cũng chỉ nói chung về hát xẩm, hát xẩm còn gọi là xẩm chợ, là một nghề kiếm sống, do một bọn người thường gồm từ hai đến ba người bị mục tật, dắt nhau kiếm sống bằng nghề hát. Ban đầu họ thường ngồi ở trước cửa chợ, bên đường đông người qua lại, hoặc trước cửa đền, chùa...

Nhạc cụ đệm cho tiếng hát của họ là cây đàn bầu, hoặc cây đàn nhị, và cái không thể thiếu được của họ cái chậu thau đặt trước mặt, để khách qua đường bỏ tiền lẻ vào đó... Có lẽ sau này khi Hà Nội có tàu điện, xe khách... thì những người hát xẩm đã hát trên tàu điện. Nhưng có lẽ như chúng ta đã thấy, hát trên tàu điện, xe khách, là những không gian hết sức chật chội, nếu có, chỉ có thể lên xuống tàu, đứng mà hát chớp nhoáng kiểu "dã chiến", chứ không thể ngồi thoải mái đàn hát như ở chợ, hay trước cửa đình được... Như vậy, ngay cả về mặt "chuyên môn của hát xẩm", hát "xẩm tàu điện" có lẽ cũng không đạt yêu cầu...

    Nghệ sĩ "nhí" Thanh Thanh Tấm, 10 tuổi trong một tiết mục xẩm - Ảnh: Trinh Nguyễn.


Tấm hình trích trên báo Thanh Niên bên trên trong buổi biểu diễn "xẩm tàu điện", cho thấy đây chính là xẩm chợ (ngồi hát ở chợ, bên hè phố, hay trước cửa đình, chùa), trên tàu điện chỗ đâu mà ngồi đàn hát được như thế?


--> Read more..

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

"Tiếu lâm bách nghệ"


                                                     Ảnh: Internet.
                                        

Thỉnh thoảng xem truyền hình tôi khá thích một chương trình do Hoài Linh phụ trách, có cái tên khá ngộ nghĩnh "Tiếu lâm bách nghệ". Tiếu lâm bách nghệ, nôm na đại khái là "chuyện cười trăm nghề", chương trình của danh hài này nói về những nghề nghiệp phổ thông trong xã hội, chủ yếu của nhng người lao động nghèo, tay làm hàm nhai, chạy ăn từng bữa, mà đất Sài Gòn này hình như đa phần là nghề nghiệp của những người lao động nhập cư.

Có lẽ vì là danh hài, cho nên Hoài Linh đã lấy tên chương trình là "Tiếu lâm bách nghệ", chthật ra nghề nghiệp của họ chẳng có gì là buồn cười cả, hđã làm đủ mọi nghđể kiếm sống, đcó tiền chi dùng cho gia đình, nuôi con ăn học một cách đàng hoàng, như tất cả mọi người khác trong xã hội. Và có l trong công việc kiếm sống của họ, cái vất vả, cái buồn nhiều hơn là cái vui.

Những nghề nghiệp mà chương trình Tiếu lâm bách nghệ giới thiệu tôi đã xem được, chẳng hạn như nghề bán hủ tiếu gõ, nghề hớt tóc dạo, bán kẹo kéo, làm tò he bán trên đường phố, làm lồng đèn bán mùa Trung thu, mua bán ve chai... rất hay. Hoài Linh là một nghệ sĩ hài khá nổi tiếng, được rất nhiều người biết đến, và thích xem khi anh diễn trên sân khấu hài. Tôi lại không thích lắm, cũng như đa số cái hài trên sân khấu Việt Nam bây giờ, nhưng chương trình Tiếu lâm bách nghệ của anh tôi lại cảm thấy thích thú khi xem, nghệ sĩ đã khéo léo đưa người xem vào những đặc trưng của những nghề nghiệp tưởng chừng "không là gì" trong xã hội bây giờ. Khi giới thiệu một nghề nghiệp gì, anh đã tìm đến với những người làm nghề, "hóa thân" vào vai của chính người làm nghề nghiệp đó, đem đến cho người xem những cảm xúc rất thật về những nghề chương trình muốn giới thiệu.

Sáng hôm qua, có một câu chuyện nhỏ mà tôi tình cờ nhìn thấy trên đường phố. Ấy là khi đang đứng ở lề đường trước một ngôi chợ, chờ bà xã tôi đi chợ, có một cậu thanh niên chừng hai mươi tuổi, ăn mặc rất tươm tất, quần áo mới, áo sơ mi bỏ trong quần đàng hoàng, chân đi dép da, mặt mũi tròn trịa sáng sủa, trông như một sinh viên đại học. Một tay cậu ta cắp cái thúng tre đựng đầy đậu phộng (lạc) luộc, có cái lon sữa bò để đong, một tay cầm một xấp vé số. Cậu ta ghé chổ tôi đang đứng mời mua, vì quá bất ngờ cho nên tôi không có phản ứng gì cả, chỉ nhìn cậu ta, cách ăn mặc của cậu thanh niên, và ngay cả con người, mặt mũi của cậu ta hoàn toàn không phải là của người lao động, thậm chí cậu ta trông như con cái nhà khá gi.

Không thấy tôi có phản ứng gì cậu ấy bỏ đi. Lúc ấy tôi mới nhìn quanh vì nghĩ có thể đây là một chương trình gì đó kiểu của Hoài Linh trong Tiếu lâm bách nghệ, và người ta đang quay truyền hình. Hoặc đây là một cái chương trình học đường, đoàn đội gì đó, để giáo dục thanh thiếu niên quen với lao động...

Chẳng có ai quay phim hay làm gì chung quanh cả, chỉ có cậu thanh niên kia tiếp tục đi mời chào mọi người trên đường phố, tôi thấy cũng có người mua cho cậu tờ vé số, hay lon đậu phộng, có lẽ cũng vì tò mò hay ngạc nhiên... Hay đấy là một cách làm ăn, nhỏ thôi theo một phong cách năng động mới?




--> Read more..

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

"Mộng vữa theo trời hoa phượng xưa".





Tôi có người bạn từ hồi còn trong quân đội xưa trên cao nguyên, bạn cũng ở Sài Gòn thỉnh thoảng gặp nhau ngồi uống cà phê tán gẫu lai rai, nhắc lại chuyện tai nạn nghề nghiệp "canh gà" của nhà giáo, bạn nói: con tao đây chớ ai, cũng từng đi dạy học một thời mà nghe nhạc câu "mộng vữa theo trời hoa phượng xưa", nói, bố ơi phải viết là "mộng vỡ" mới đúng, "mộng vữa" nghe chẳng có nghĩa gì hết.

Cũng may là bạn khá rành về chữ nghĩa cho nên cắt nghĩa được cho con "mộng vữa" chứ không phải là "mộng vỡ". Dẫu sao đây cũng là một từ cổ, lại là phương ngữ của miền Bắc chứ không phải là một từ phổ thông, cho nên cũng không nên trách con bạn, bởi "mộng vỡ" (vỡ mộng) thì nghe dễ hiểu hơn "mộng vữa". Chữ "vữa" là để chỉ trạng thái hư hỏng của đồ ăn, ở đây tác giả đã đưa vào bài hát diễn tả tình cảm nên có lẽ nhiều bạn trẻ bây giờ nghe không hiểu (câu nhạc trên là trong một bài hát của Phạm Duy, phổ thơ Du Tử Lê, nhạc sĩ Phạm Duy có lẽ là người phổ thơ hay nhất Việt Nam xưa nay).

Người Việt mình có lẽ là một dân tộc thể hiện ngôn ngữ "lắt léo" nhất thế giới, các bạn cứ thử xem, cùng màu đen nhưng là gà ô, ngựa ô, chó mực, mèo mun, dế than... họ hàng thì cô, dì, cậu, mợ, bác, chú, thím, dượng..., người ngoại quốc mà học tiếng Việt chắc bó tay. Trở lại chữ "vữa", vữa là để chỉ món ăn có nước đang trong thời kỳ bị phân hủy, bắt đầu hư hỏng, chẳng hạn cháo vữa, cơm vữa (cơm có chan canh), còn cơm để không (khô) bắt đầu mốc hư lại gọi là "cơm hẩm", gạo mốc gọi là "gạo hẩm", trứng gà trứng vịt hư gọi là "ung", trái cây bị giập muốn hư gọi là "ủng"...

Nói chuyện chữ "vữa" với bạn cũng nhắc đến mấy từ liên quan tới đồ ăn bị hư hỏng, chẳng hạn như câu tục ngữ, "cố đấm ăn xôi/ xôi lại hẩm", "hẩm " như tôi đã nói bên trên, là xôi bắt đầu hư mốc, chỉ hành động của một người chịu sự thiệt hại đến bản thân (cố bị đấm), để mong ăn được miếng xôi, nhưng xôi lại bị "hẩm", hư mốc chẳng ăn được, một sự đánh đổi vô ích. Có nhiều sách vở dùng chữ "xôi bị hỏng" là không chính xác. Một câu thành ngữ khác ghi rõ là "hỏng", nhưng ý nghĩa lại không phải món ăn đã bị hỏng, chẳng hạn câu "xôi hỏng bỏng không", xôi thì ai cũng biết là gì, nhưng "bỏng" có khi bây giờ nhiều bạn trẻ không biết, "bỏng" là một món ăn hình như có gốc từ miền Bắc, người ta lấy thóc nếp, hoặc hạt bắp, ngô, rang lên cho nở bung ra trắng xóa, thường trộn thêm với mật, đường, ngày xưa thường nắm thành nắm tròn bằng nắm tay, trẻ con thích ăn, món này còn một tên gọi khác xưa cha mẹ tôi hay gọi, đó là "nả".

Câu thành ngữ "xôi hỏng bỏng không" lại không phải để chỉ cái hư hỏng của món ăn như chữ "xôi hẩm" bên trên, mà để chỉ xôi cũng hỏng ăn (không được ăn), mà bỏng cũng chẳng có, nghĩa bóng là bị vuột mất một cơ hội nào đó...

Tiếng Việt quả là khó...
--> Read more..

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

Xe thổ mộ.





Nhìn những tấm ảnh chụp xe ngựa năm xưa ở Sài Gòn, tôi lại nhớ về một thời tuổi nhỏ. Xe ngựa là từ dân dã, người bình dân gọi loại xe chuyên chở một thời này là xe ngựa, thường là chuyên chở người và nông thổ sản, tên "chữ" gọi là xe thổ mộ, cũng như Bến Nghé là tên gọi xưa vùng Sài Gòn, còn tên chữ trên sách vở là Ngưu Chử.

Thời ấy xe tải chạy bằng máy chưa nhiều như bây giờ, xe ngựa đương nhiên là xe do ngựa kéo, nhưng tên xe thổ mộ với chữ thổ mộ nôm na theo như nghĩa là cái mộ (mả) đất. Sở dĩ có tên gọi như thế là vì hình dáng của chiếc mui xe, cong cong lùm lùm trông như cái mộ đất, nhìn thấy sao thì gọi tên như vậy. Hình như người Pháp gọi xe thổ mộ là Boite d'allumettes, cái hộp quẹt, hộp diêm, có lẽ là vì họ nhìn thấy những chuyến xe thổ mộ thường chở đầy nhóc người ngồi bên trong thùng xe, trông như những que diêm trong hộp diêm chăng? Xe ngựa có đặc điểm rất hay, người điều khiển xe ngồi phía trước, tôi nhớ ngày xưa có khi là một ông già Nam bộ mặc bộ bà ba đen đã đứng tuồi, tóc búi tó trên miệng thường ngậm điếu thuốc rê Gò Vấp, một tay cầm dây cương còn tay kia cầm ngọn roi thỉnh thoảng vung lên quất vào không khí, hoặc con ngựa nghe "tróc, tróc". Nếu xe đã chở chật khách bên trong thùng xe, thì bác "xà ích", để gọi người điều khiển xe ngựa ngồi hẳn ra phía trước, vắt vẻo trên càng xe mà điều khiển xe ngựa. Và những hàng hóa, thường là đôi quang gánh hàng rong của khách, những gánh hàng hoa, hay những sọt tre đựng rau, củ của vùng ven Sài Gòn ở Hóc Môn, Bà Điểm... được cột, treo lủng lẳng hai bên hông xe hay cả trên mui xe mà chạy.

Nhìn những tấm hình trên thì chúng ta cũng nhận ra, khi đường phố Sài Gòn đã hình thành, nghĩa là vào khoảng thập niên 60, 70 của thế kỷ trước thì vẫn còn xe thổ mộ chạy trên đường phố trung tâm Sài Gòn. Bên hông chợ Tân Định nơi vùng Tân Định quận 1 vẫn còn một con đường nhỏ mang tên Mã Lộ, ngày xưa là bến xe ngựa đậu để chuyên chở hàng nông thổ sản từ vùng ngoại ô cung cấp cho chợ Tân Định, ở ngay khu bờ sông trên kênh Nhiêu Lộc chỗ chùa Miên, gần cầu xưa tên là cầu Trương Minh Giảng nơi quận 3 còn một địa danh mà những ai khoảng ngoài 50 tuổi sống gần đó hẳn còn nhớ, đó là Bến tắm ngựa, những con ngựa kéo xe thường hay được các bác xà ích mang đến đó tắm rửa sau những chặng đường xa bụi bặm...

Ngoài xe ngựa trên đường phố Sài Gòn khoảng thời gian những năm 60, 70 còn có thêm xe bò, là do xe bò kéo, nếu xe ngựa chỉ do một con kéo thì xe bò thường do hai con, xe bò thì đi chậm hơn xe ngựa, cứ nhẩn nha mà đi, xe bò chỉ chở hàng hóa chứ không chở người, và thuở nhỏ vì học tiểu học gần đó, tôi thường thấy những chiếc xe bò chở đầy những thân tre, lồ ô, dài thượt, cung cấp cho khu vực "Nhị tì Quảng Đông" (khu nghĩa trang của người Hoa gốc Quảng Đông), Tôn Thọ Tường nơi quận 11 bây giờ (xưa là quận 5), xưa nơi này chuyên đan lát bán những vật dụng bằng tre nứa...

Theo thời gian, chiếc xe thổ mộ và xe bò giờ đã đi vào dĩ vãng. Hình ảnh chiếc xe ngựa với những người khách bình dân ngồi nêm kín trong thùng xe, gánh hàng buộc quanh xe. Tiếng xe ngựa, xe thổ mộ xưa chạy trên đường nghe "lóc cóc, lóc cóc", do tiếng móng sắt của ngựa gõ xuống mặt đường nhựa, còn xe bò chất đầy hàng hóa, với tiếng xe nghe "lộc cộc, lộc cộc", là do tiếng trục bánh xe quay khi di chuyển... có lẽ vẫn còn mãi trong tâm tưởng của những ai đã từng gắn bó với một Sài Gòn năm xưa...


Ảnh: Internet.

--> Read more..

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

Cựu hoàng.



Mấy ngày hôm nay báo chí có đưa tin về việc cựu quốc vương Cambodia là ông hoàng Norodom Sihanouk đã qua đời ở tuổi 90. Cựu hoàng Norodom Sihanouk sinh năm 1922, lên ngôi vua vào năm 1941 lúc mới 19 tuổi, là một tên tuổi khá nổi tiếng, gắn liền với đất nước Cambodia, và ít nhiều với cả Việt Nam. 

 Theo trang Bách khoa toàn thư Wikipedia, cựu hoàng học trung học tại Sài Gòn, trường Lycée Chasseloup Laubat, nay là trường Trung học Lê Quý Đôn cho đến khi lên ngôi vua. Nhân việc ông qua đời, tôi muốn lan man một vài điều có liên quan đến đất nước Cambodia của ông với Việt Nam.

Như chúng ta đã biết, đất nước Cambodia, mà trước đây là vương quốc Khmer, Campuchia, người Việt gọi là Chân Lạp, Chân La, nước Phiên, Cao Miên, Cao Mên, Cao Man... Về mặt ngoại giao có lẽ nước Việt Nam chỉ mới có những quan hệ mật thiết với Cambodia từ thời nhà Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam, là đất xưa của người Chân Lạp dưới tên Thủy Chân Lạp. 

Theo lời văn của Gia Định Thành Thông Chí  do Trịnh Hoài Đức viết, thì di dân Việt Nam, đã vào Mô Xoài (vùng Đồng Nai - Bà Rịa bây giờ) từ thời các "tiên hoàng đế" Nguyễn Hoàng (1558-1613), Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635),  Nguyễn Phước Lan (1635-1648), tức là vào khoảng giữa thế kỷ thứ 16. Theo Trương Vĩnh Ký có lẽ tên gọi Sài Gòn là do người Cao Miên đặt, bắt nguồn từ tên tiếng Miên PREI NOKOR, cũng như nhiều địa danh khác tại Việt Nam cũng có nguồn gốc từ tiếng Cao Miên như Bến Nghé (Kompong Krabei), Cần Giờ (Srock Kanco), Gò Vấp (Kompăp), Cần Giuộc (Kantuoc), Cn Đước (Anơơk), Sóc Trăng (Srock Khăn), Bến Tre (Prek Rusei)...

Đọc sử Việt Nam, những bộ sách sử viết dưới triều Nguyễn, như Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Nhất Thống Chí, Quốc Triều Chỉnh Biên Toát Yếu, Gia Định Thành Thông Chí... chúng ta sẽ thấy đất nước Cao Miên thời nhà Nguyễn đặt dưới sự bảo hộ của Việt Nam, khi Đại hành hoàng hậu mất, thì quốc vương Chân Lạp là Nặc Chăn cũng xin chịu tang, và sai sứ đến kinh đô Phú Xuân dâng hương, khi nước Chân Lạp bị người Xiêm xâm lấn cũng cầu cứu nhà Nguyễn đem quân sang giúp...

Cầu Bông ở Sài Gòn, trước đây có tên là cầu Hoa, nhưng sau kị húy tên Hồ Thị Hoa vợ vua Minh Mạng nên đổi thành cầu Bông, nhưng trước đó cầu Hoa có tên là cầu Cao Man, sở dĩ có tên gọi là cầu Cao Man là hồi đầu dựng nước (1611), vua nước Cao Man là Nặc Tha bị Nặc Sô đánh đuổi, phải chạy qua Gia Định tá túc, chỗ đất thoáng đãng nơi thượng du con sông, mà chỗ đó lại cách sông phải làm cầu ván qua lại, nên gọi là cầu Cao Man (Đại Nam Nhất Thống Chí). Tên gọi tỉnh Thanh Hóa bây giờ cũng thế, trước thời vua Minh Mạng có tên là Thanh Hoa, sau cũng vì kỵ húy bà Hồ Thị Hoa mà đổi là Thanh Hóa, cũng giống như trường hợp chợ Đông Ba (tên cũ là Đông Hoa) ở Huế vậy...

Bài "Gia Định phú", một bài thơ khuyết danh thất ngôn bát cú tại miền Nam xưa kia, chủ yếu nói về đất Sài Gòn với rất nhiều địa danh, cũng có câu nhắc đến cầu Cao Miên "Chợ Cây Da thằng Mọi, coi bán đủ thuốc Xiêm, cau mứt/ Cái rạch cầu Cao Miên thấy làm nguyên cột vắp, ván trai". Trong câu cũng có nhắc đến cột vắp, ván trai, cột vắp là cột làm bằng gỗ cây vắp, một loại cây gỗ cứng trồng nhiều ở vùng Gò Vấp, chữ "vắp" là do từ chữ "vắp", phiên âm từ tiếng Cao Miên "Kompăp" mà ra.

Còn về tên nước Cao Miên, tại sao sách sử Việt Nam có khi viết là Cao Miên, rồi Cao Mên, hay Cao Man... Trong Tạp chí Xưa & Nay cơ quan Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam số 53B tháng 7-1998, bài viết của Dương Bảo Vận, một nhà nghiên cứu trẻ Trung quốc tốt nghiệp tiến sĩ sử học ở Pháp, nghiên cứu sử Việt Nam, đưa ra những ý kiến cho biết, cũng chính là do tục kỵ húy mà chữ Miên trong Cao Miên, đọc thành Mên, hoặc Man. Những sách sử chép từ thời vua Minh Mạng trở về trước đều viết là Cao Miên, chỉ từ sau khi Hiến Tổ Chương Hoàng Đế Nguyễn Miên Tôn (Tông) lên ngôi năm 1841 (kỷ nguyên Thiệu Trị), năm 1847 triều đình Huế cử sứ thần đến Oudong phong vua cho vua Cao Miên và tặng cho vua "Vương miện của vương quốc Cao Man", tên gọi Cao Man, Cao Mên bắt đầu từ đó...

Một vài dòng nhân cựu hoàng Cambodia qua đời...



--> Read more..

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Lại... lai rai chữ nghĩa.


                                                             Ảnh Internet.



“Cứu khổ phò nguy” đúng hay sai?

TT - Trên báo Tuổi Trẻ ra ngày thứ hai 8-10 có tựa bài “Khát vọng cứu khổ phò nguy”. Bạn đọc Vạn Lý cho rằng cụm từ Hán Việt xưa nay xuất hiện trên sách báo đúng ra là “cứu khổn phò nguy”. Cụm từ này rất quen thuộc, được dùng khá phổ biến. Nếu tác giả cải biên thành “cứu khổ phò nguy” thì cũng có nghĩa tương tự nhưng hẹp hơn rất nhiều và nhất là không thuận tai những người có chút ít chữ nghĩa về Hán Nôm.

PGS-TS BÙI MẠNH HÙNG trả lời:

- Sự quan tâm của độc giả đối với tiếng Việt trên báo chí và những góp ý của quý vị rất đáng trân trọng.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng tiêu đề “Khát vọng cứu khổ phò nguy” không sai.

Tiêu đề này hoàn toàn ổn, tuy có một cách nói khác thích hợp hơn với nội dung bài viết là “cứu khốn phò nguy” (“nguy” đi với “khốn”). Có một số độc giả thấy “lăn tăn” là do vốn Hán học của họ. Theo những độc giả này thì phải viết là “cứu khổn phò nguy”, vì trong tiếng Hán từ thứ hai trong cụm từ này là “khổn”, chứ không phải là “khổ”. Nhưng ngôn ngữ luôn vận động và phát triển. Người viết báo dùng “cứu khổ phò nguy” thì đông đảo người Việt ngày nay cảm thấy dễ hiểu, vì họ quen với những cách nói như “cứu khổ cứu nạn” và họ cũng hiểu đúng cái ý mà tác giả muốn nói. Còn nếu viết “cứu khổn cứu nạn” thì hầu hết độc giả sẽ không hiểu. Muốn hiểu, phải tra từ điển Hán Việt hay hỏi han những người hiểu biết.

Báo chí nên viết theo ngôn ngữ của ai? Dĩ nhiên phải theo người bản ngữ, tức tuyệt đại đa số những người không hiểu được từ “khổn” mà chỉ biết đến từ “khổ”, chứ không thể theo cảm nhận của một số ít người có vốn Hán học. Nhất là khi việc theo số đông lại có lợi cho giao tiếp, không làm tổn hại gì đến sự trong sáng của tiếng Việt.

Nếu theo cách suy luận của những độc giả đó thì hiện nay có rất nhiều cách nói, cách hiểu có thể bị coi là sai, như “hỗ trợ”, “chung cư”, “lang bạt kỳ hồ”..., vì người Việt hiện nay không còn dùng những từ ngữ này theo đúng hình thức ngữ âm và ngữ nghĩa như nó vốn có.

                         

             
Trên đây là bài viết tôi copy từ báo Tuổi Trẻ Online nói về câu thành ngữ "Cứu khổn phò nguy" viết trên báo , đã được biến đổi theo  một dạng khác, và ý kiến của bạn đọc, cũng như ý kiến của một vcó học hàm, học vị trả lời, các bạn đọc cũng đã rõ. Tôi không có ý bình luận gì về bài viết trên. Nhân đây bằng thiển ý của mình, tôi muốn nói sơ qua về câu thành ngữ "Cứu khổn phò nguy".

Thật sự câu "Cứu khổn phò nguy" bây giờ chúng ta không còn thấy xuất hiện trên các mặt báo, nhất là báo giấy nữa, nhưng nếu lên mạng vào Google gõ từ "Cúu khổn phò nguy", chúng ta sẽ thấy xuất hiện khá nhiều trang mạng còn dùng câu thành ngữ này, và những trang mạng này thường là những trang viết về truyện kiếm hiệp khi xưa. Tôi thử gitất cả những quyển tđiển có trong tay, mấy quyển tđiển tiếng Việt, tđiển thành ngữ tục ngữ tiếng Việt, tđiển tầm nguyên, tđiển từ cổ, kể cả tđiển điển cố Trung Hoa..., lạ thay chẳng thấy quyển sách nào nói về câu "Cứu khổn phò nguy" c. Tôi chỉ thấy nói tới câu "Cứu khốn phò nguy", chữ "khốn" dấu sắc, chứ không phải chữ "khổn" dấu hỏi, và nghĩa của câu như chúng ta đã biết, đại khái là "cứu giúp ai đó qua lúc khốn cùng, hiểm nguy". Riêng chữ "khổn" tôi chẳng thấy một quyển từ điển tiếng Việt nào giải nghĩa.

Nhưng trong quyển từ điển Hán - Việt của Thiều Chửu có giải nghĩa khá rõ về chữ "khổn", tôi chỉ lấy nghĩa có liên quan đến câu "Cứu khổn phò nguy". "Khổn" ở đây có nghĩa là "cổng thành ngoài", Sử ký có câu "Khổn dĩ nội quả nhân chế chi, khổn dĩ ngoại tướng quân chế chi", từ cổng thành ngoài trở vào thì quả nhân coi xét, từ cổng thành ngoài trở ra thì tướng quân coi xét. Chữ "khổn" ở đây là cổng thành ngoài, không liên quan gì đến từ "khốn hay khổ", và câu này từ nguyên của nó đúng là "Cứu khổn phò nguy". Chữ "khổn" ở đây liên quan mật thiết đến một chữ khác trong câu đứng ngay sau nó, đó là chữ "phò". Như chúng ta đã biết, "phò" nghĩa là theo giúp vua, và thành ngữ "Cứu khổn phò nguy", nghĩa hẹp ban đầu là cứu cổng thành ngoài để giúp vua qua cơn nguy ngập, chẳng hạn trường hợp nhà vua đang bị vây hãm trong thành. Còn nghĩa rộng như chúng ta cũng đã rõ, để chỉ việc cứu giúp một ai đó qua cơn nguy khốn...

Trong sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn (bản do Nguyễn Khắc Thuần dịch, nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 2007), có chép liên quan đến từ "khổn". Năm Thuận Thiên thứ 3, Hoàng đế nghĩ Hóa Châu là đất cũ, lại giáp với Chiêm Thành, cần phải có vị trọng thần chế khổn làm Trấn Thủ, vì vậy mới sai Hành Quân Tổng Quản đến trấn giữ đất ấy. ghi chú của Nguyễn Khắc Thuần về chữ "chế khổn" trong câu này là: khống chế được, thực hiện tốt những công việc ở ngoài cửa "khổn", tức là ở ngoài cửa của hoàng cung.

Tôi nghĩ tại sao người xưa không dùng chữ "Cứu khốn" hay "Cứu khổ phò nguy" cho dễ hiểu, mà đi dùng chữ "khổn". Nếu có ai đó giúp vua qua cơn nguy cấp mà lại đi tâu với vua: Thần đã "cứu khốn (khổ) phò nguy", thì chắc sẽ bị bắt tội. Bởi vì không ai nói "giúp vua qua cơn nguy cấp khốn khổ cả", chữ "khốn, khổ" là để dành cho "thảo dân", như chúng ta cũng đã biết, vua ăn cơm gọi là ngự thiện, vua khó ở phải gọi là "se", vua mất phải gọi là "băng", chứ chẳng ai dám gọi là vua ốm hay vua chết như gọi nơi người bình thường...

Đối với bài báo trên, người trả lời viết có một cách thích hợp hơn là viết "Cứu khốn phò nguy", thực ra nói "cứu khốn phò nguy" cũng y hệt như nói "cứu khổ phò nguy" vậy...

Từ ngữ luôn có sức sống của nó, từ "cứu khổn phò nguy", trở thành "cứu khốn phò nguy", hay "cứu khổ phò nguy", những cách dùng này đúng là có thể không hề sai về mặt ngữ văn như vị PGS-TS viết bên trên, và cũng dễ hiểu hơn với đại chúng, nhưng nếu có thể hiểu thêm được từ nguyên của từ ngữ cũng là điều thú vị...




--> Read more..